Kỷ tử - Vị thuốc được dùng nhiều trong điều trị các bệnh về mắt
Theo Đông y, tinh hoa của ngũ tạng đều biểu hiện ở đôi mắt, can khai khiếu ở mắt, can thận đồng nguyên, can là con của thận, thận là mẹ của can nên bệnh con thì ảnh hưởng đến mẹ, và ngược lại bệnh mẹ lại ảnh hưởng đến con. Can chủ tàng huyết, thận chủ tàng tinh, tinh huyết hộ sinh lẫn nhau, nên khi có bệnh ở mắt thường luận trị từ can, thận. Các vị thuốc điều trị về mắt trong đông y thường dùng như kỷ tử, Cúc hoa, Đương quy, Bạch thược, Thạch quyết minh, Bạch tật lê, Bạch truật, thục địa ...Kỷ tử vị ngọt, tính bình, quy kinh can, thận; công chuyên bình bổ can thận, ích tinh sinh huyết, minh mục.
Cúc hoa vị cay, đắng, ngọt, tính vi hàn, quy kinh phế, can; công chuyên thanh sơ phong nhiệt, thanh can hoả, bình can phong, minh mục.
Đương quy vị ngọt, tính ôn, quy kinh can, tỳ; ích bổ can huyết, dưỡng can thể, công kiêm hoạt huyết, nên bổ mà không trệ.
Bạch thược vị đắng, chua, tính vi hàn; quy kinh can, tỳ; giúp dưỡng can âm, bình can dương, nhu can thể.
Thạch quyết minh vị mặn, tính hàn, quy kinh can; có tác dụng bình can tiềm dương, thanh can minh mục.
Bạch tật lê vị cay, đắng, tính bình; quy kinh can; giúp bình can dương, giải can uất, khu phong nhiệt, minh mục.
Thục địa hoàng vị ngọt, tính ấm, bổ huyết, sinh tinh, ích tủy,tư dưỡng can thận vô cùng đặc hiệu.
Có thể nói, lựa chọn dược vật điều trị mắt phải lựa chọn những vị thuốc có tính vị, quy kinh, công dụng luôn lấy can, thận làm đầu; bổ tả kết hợp, lấy bổ làm chính, dĩ tả trợ bổ, tương phản tương thành. Tùy từng nguyên nhân để bổ thận âm, dưỡng can huyết, bình can phong, thanh can hoả ... công hiệu vô cùng.
Các vị thuốc mà Đông Y Sơn Hà sự dụng đều đã qua quá trình nghiên cứu, có tác dụng điều trị rất tốt các bệnh nhãn khoa như: sụp mí mắt, song thị, liệt dây thần kinh vận nhãn III, IV, VI, lác trong, lác ngoài, viêm võng mạc trung tâm, viêm dây thần kinh thị giác, khô viêm giác mạc...